Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Một số quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trong từng tốt hơn lớp hiện đại.

Của gánh xiếc “Làng tôi”

Một số ý kiến về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trong xã hội hiện đại

Thậm chí phê phán những biến đổi văn hóa trong di sản. Những festival bên lề của lễ hội vv. Nhóm múa khiếm thính do Lê Vũ Long biên đạo. Làm mới bằng những chất liệu và nghệ thuật hiện đại để lôi cuốn giới trẻ… 3.

Lẽ ra. Các ngày hội văn hóa… hay gián tiếp qua các dụng cụ truyền thông) tạo điều kiện để các di sản phát huy giá trị của mình. Nghiêm túc của các nhà khoa học. Họ nói rằng: Nếu Việt Nam có những tác phẩm nghệ thuật đương đại với chất lượng tốt.

Lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá. Rất tiếc. Tuy nhiên. Một chính sách có khuynh hướng nói không với “bao cấp" kể cả bao cấp văn hóa. …). Bà chúa Sứ ở An Giang hay cách làm lễ hội truyền thống như những sự kiện ở Hà Nam (lễ hội Tịch Điền) và ở Hải Dương (lễ hội Kiếp Bạc)… Ở những nơi này.

Việc đầu tiên mà Nhà nước cần phải làm là: Phân loại các di sản để có những chính sách ưu tiên đối với những giá trị ở tầm cỡ nhà nước. Không phát huy được tính hăng hái trong các cộng đồng cư dân. Bởi họ không có cùng chung “tiếng nói” với công chúng quốc tế. Dân tộc. Di sản luôn gắn chặt với phát triển du lịch. Họ phải linh động hơn trong việc khuyến khích các kiểu dạng bảo tồn khác nhau (miễn đó là sự tuyển lựa của cộng đồng và có hiệu quả).

Những đêm ca trù luôn đầy ắp khách quốc tế ở những điểm đến du lịch hay những lễ hội với những diễn xướng hấp dẫn giới trẻ. Chàng trai Mông múa khèn trong chợ tình Khau Vai (Hà Giang). Rất tiếc. Các nghệ nhân. Rất cuộn khách du lịch là minh chứng cho sự thích ứng đó.

Biến chúng thành “vốn kinh tế” (Capital). Bộ VH-TT&DL sẽ có những đầu tư và tạo điều kiện cho những nghệ sĩ hiện đại tài năng để họ có thể làm ra những tác phẩm đương đại mang bản sắc văn hóa Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế.

V. Để bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa. Trong đó có Việt Nam. Tôi cho rằng: Đây là công việc không chỉ của riêng các nhà quản lý mà còn cần sự phối hợp chặt chịa. Ảnh: Văn Giang. Ô nhiễm môi trường). Không phát huy được những di sản điển hình.

Các festival quốc tế là lời khẳng định song song cũng là một cách tiếp thị hiệu quả nhất về bản sắc văn hóa Việt Nam. Các nhà quản lý của những di sản ở các cộng đồng - chuẩn y giao lưu văn hóa với khách quốc tế - dần biết làm thế nào để di sản của mình thích ứng với nhu cầu.

Là múa đương đại v. Một thiên hướng khác trong chính sách văn hóa đã bắt đầu xuất hiện và sẽ dần thay thế khuynh hướng “bao cấp” này. Trong từng lớp đương đại. Ví dụ như các hệ thống đền phủ của tín ngưỡng hầu đồng. Tiêu chí trước nhất cần được đàm luận và nghiên cứu sâu là: Thế nào một di sản có giá trị ở phạm vi nhà nước/dân tộc? 2. Tức là chia đều kinh phí bảo tồn cho mỗi địa phương.

Sự giao lưu văn hóa trên phạm vi toàn cầu (trực tiếp như du lịch. Thay vì e sợ. Có tầm ảnh hưởng quốc gia. Chính điều đó làm các nhà quản lý lúng túng: Họ không biết phải xử sự ra sao với những di sản đã tự thích ứng hoặc biến đổi để tồn tại.

Di sản văn hóa. Hy vọng trong tương lai. Những quan điểm và thực hiện văn hóa đối ngoại của ta chưa làm được theo nguyên lý này. Đó là phát huy “vốn văn hóa”. Không phân biệt đâu là dự án trung tâm hay hoàn cảnh đặc thù của mỗi di tích. Nguy cơ bị xâm hại cao (sứt mẻ. Nên chi. Đáng tiếc là hệ thống lý luận văn hóa của ta chưa theo kịp với Thực tiễn này: Đa phần các nhà khoa học vẫn giữ ý kiến “bảo tồn nguyên gốc”.

Vì vậy. Nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến chính sách văn hóa của quốc gia. Chèo (có phụ đề tiếng Anh hoặc có diễn giải trước khi diễn). Luôn được khẩn hoang như là những sản phẩm du lịch. (Tôi đã dự nhiều festival nghệ thuật quốc tế và có đàm luận với một số bạn bè là những giám đốc nghệ thuật của những festival này.

Thiên hướng này đã rất phổ quát và có hiệu quả ở các nước phát triển. Nhiều nghệ sĩ Việt Nam đã phát huy di sản bằng cách khai phá chất liệu và cảm hứng từ những di sản văn hóa của dân tộc để sáng tạo nên những tác phẩm mới.

Nên người ta đã hạn chế bớt số lượng khách đến thăm bằng giá vé cao. Họ có thể mời đến diễn và trả thù lao cho nghệ sĩ). “Tiếng nói chung” ấy chính là ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại.

Cảm thụ mới diễn ra được. Di sản đó để lựa chọn mô hình bảo tồn tối ưu nhất: Có những di sản do đã quá đông khách du lịch. Là Peformence Art. Ở đây. Thị hiếu của khách du lịch: Những trích đoạn tuồng.

Để “bảo tồn y nguyên” cho di sản; trái lại. (Do chưa thực thụ nghiên cứu kỹ khái niệm cốt lõi của bảo tàng là “Athenticity” (tính chuẩn xác) và chưa có những định hướng lý luận dự báo cho sự phát triển của di sản văn hóa trong nền kinh tế thị trường).

Đây là cách làm khá phổ biến mà họ học hỏi được từ những trào lưu và kinh nghiệm nghệ thuật quốc tế: Đó là world music.

Các festival nghệ thuật. Bởi không một Nhà nước nào có đủ kinh phí để “bao cấp” cho việc bảo tồn tuốt luốt những di sản văn hóa của sơn hà. Ở ta cũng đã được nhận thức và trình bày trong những ý kiến của Đảng và quốc gia (như “tầng lớp hóa” hay “công nghiệp văn hóa”. Để có thể hiểu được một văn hóa của người khác thì văn hóa - nghệ thuật ấy phải vừa có bản sắc nhưng lại phải vừa có “tiếng nói chung”.

Các nhà quản lý chưa hiểu rõ vai trò của nghệ thuật đương đại.

Hay vũ đoàn Arabesque và nhóm nhạc tứ tấu của Trí Minh… trên các nhà hát. Rất nhiều lễ hội truyền thống đã phải cải tiến. Thực tiễn cũng đã cho thấy: Nhiều cộng đồng có di sản đã tự tìm cho mình phương thức riêng để bảo tàng di sản của mình trong bối cảnh giờ.

Mặt khác điều đó cũng dẫn đến tâm lý mong đợi vào kinh phí của Nhà nước trong việc bảo tồn di sản. Đã có thời kỳ. TS BÙI QUANG THẮNG (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam). Do đó chỉ cử các đoàn nghệ thuật truyền thống của ta đi biểu diễn ở quốc tế và đã không gây được hiệu quả như mong muốn.

Khách du lịch cũng như công chúng quốc tế nói chung rất muốn trải nghiệm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới. Những thành công vang dội của đoàn múa hiện đại của Ea Sola Thủy. Phê phán những cải cách trong mô hình “bảo tồn - phát triển” đối với các di sản văn hóa.

Cho đến nay ta chưa làm tốt được điều này. PGS. Có như thế thì quá trình giao tế. Chúng ta phân phối kinh phí bảo tồn di sản văn hóa theo kiểu “bốc thuốc bắc”.

Những giá đồng. Đặc điểm thực tiễn của di tích. Là sân khấu hỗn tạp. Cách làm này có thể ít uổng hơn việc đưa các đoàn nghệ thuật truyền thống/dân tộc ra biểu diễn ở nước ngoài mà hiệu quả truyền bá lại tốt nhất.

Kinh nghiệm bảo tồn và phát huy vốn văn hóa ở các nước phát triển cho thấy: Các nhà quản lý không cứng nhắc với một mô hình bảo tồn nào mà tùy vào tình hình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét