Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Đón đầu nhịp thời hậu khủng thông tin hoảng

Trang 1 / 3

Kinh tế Việt Nam: Ý nghĩa của những con số


Ông Vũ Thành Tự Anh
Đưa ra hàng loạt con số âm (sụt giảm) trong 6 tháng đầu năm 2009 ở nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như sản xuất, xuất - du nhập (so với cùng kỳ năm trước), song ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại Việt Nam, người mở đầu Hội nghị, cho rằng, con số âm đáng để ý nhất chính là con số âm của tiêu dùng và đầu tư.

Theo ông, hai con số này đáng chú ý vì hai lẽ.

Thứ nhất là tính nhất quán của chúng. Chẳng hạn, mức sụt giảm tiêu dùng chính thức được ban bố là 3,5%, nhưng theo tính hạnh của một chuyên gia ở Tổng Cục Thống kê, tỉ lệ này phải lên đến 10%. Song, ông Tự Anh cho biết, hiện ông chưa có đầy đủ cơ sở để kiểm chứng con số 10%, nên theo ý kiến thận trọng hơn, ông vẫn dùng con số 3,5% cho những tính của mình.

Con số âm thứ hai mà ông Tự Anh đưa ra là tốc độ tăng vốn đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2009, theo tính nết của ông, là -14%. Trong khi đó, tỉ lệ này theo công bố của Tổng Cục Thống kê là tăng 18%, mặc dù cả hai đều được tính hạnh dựa trên những dữ liệu do Tổng Cục Thống kê cung cấp. “Trong con số 18% có một con số mà tôi khôn xiết quan hoài nhưng không có khẳng định nào từ phía Tổng Cục Thống kê là đầu tư tư nhân của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm tăng trên 30%”, ông nói, “trong khi số lượng và vốn đăng ký của doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM và Hà Nội đều giảm, tôi không hiểu con số 30% này được tính như thế nào”.

Tuy nhiên, điều đáng nói nhất về hai con số này là chúng đại diện cho hai lĩnh vực vốn là đích ngắm của gói kích cầu, đó là đầu tư và tiêu dùng. Và bất chấp gói kích cầu 8 tỉ USD đã được tung ra, cả đầu tư lẫn tiêu dùng đều sụt giảm.

Bỏ qua những con số âm, ông Tự Anh dành sự quan tâm đối với một con số dương là tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 6 tháng đầu năm, đạt 3,9%. Tuy nhiên, vẫn với ý kiến thận trọng, ông nhận định: “Chúng ta vẫn thường kiêu hãnh Việt Nam là 1 trong 13 nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế dương, nhưng nếu so sánh với tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam là 9-10%/năm, có thể nói tác động của khủng hoảng kinh tế đã làm cho GDP của chúng ta giảm 5-6%, nghĩa là giảm na ná như các nước chịu tác động mạnh nhất của khủng hoảng kinh tế”.


Ông Trương Đình Tuyển
Đồng quan điểm với ông Tự Anh, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cho rằng, Việt Nam chịu tác động không nhỏ bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đối với câu hỏi lớn nhất là khi nào Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng, có quan điểm cho rằng Việt Nam và Trung Quốc có thể sẽ là 2 nước thoát ra khỏi khủng hoảng sớm nhất. Tuy nhiên, ông cho rằng, nếu xử lý tốt gói kích cầu thì Việt Nam mới có thể thoát ra khỏi khủng hoảng sớm, nhưng vẫn không thể sớm hơn Trung Quốc. Duyên cớ là Trung Quốc có thị trường nội địa lớn, họ cũng có gói kích cầu và gói kích cầu của họ đi đúng hướng, tức kích cầu hàng nội địa. Còn Việt Nam, nếu không xử lý tốt gói kích cầu thì dường như chúng ta đang kích cầu cho hàng ngoại, đặc biệt là hàng… Trung Quốc.

Chuyên gia về lĩnh vực thương nghiệp này cũng mang đến Hội nghị những nhận định sắc bén về thị trường xuất khẩu trong thời gian tới. Ông Tuyển cho rằng, muốn đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 3% (theo Nghị quyết của Quốc hội) thì kim ngạch xuất khẩu 6 tháng cuối năm sẽ phải đạt 36,4 tỉ USD, bình quân mỗi tháng phải đạt trên 6 tỉ USD, cao hơn mức bình quân của 6 tháng đầu năm là 1,4 tỉ USD/tháng. Đây là điều rất khó. Vì tỉ trọng thị trường vẫn không đổi thay, tuần tự là Mỹ, ASEAN, Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản, trong khi Mỹ và Nhật thì đang “vật vã” để thoát ra khỏi khủng hoảng, còn EU được dự báo sẽ là khu vực thoát ra khỏi khủng hoảng muộn nhất. Thành thử, ông nhấn mạnh, cần đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latinh là những thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh trong mấy năm gần đây. Đây cũng là những thị trường có yêu cầu chất lượng hàng hóa phù hợp với khả năng sản xuất của Việt Nam (tuy thị phần còn nhỏ). Ông Tuyển đặc biệt nhấn mạnh đến thị trường Trung Quốc, nơi mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ giảm 1,7% trong 5 tháng đầu năm (giảm mạnh nhất là thị trường Nhật, với 37,4%). Và tại Trung Quốc, ông dành nhiều sự quan hoài đối với mặt hàng cà phê và thủy sản. Ông nói: “Một nhà nước với 1,3 tỉ dân đang chuyển từ lề thói uống trà sang uống cà phê sẽ là dịp lớn cho xuất khẩu Việt Nam”.

Ông cũng lưu ý một điểm đặc biệt là thị trường Nhật Bản, dù xét về tổng thể có mức sụt giảm mạnh nhất, nhưng riêng mặt hàng dệt may lại tăng 20%, điều chưa từng có trong những năm trước đây. Đó là nhờ Hiệp định Đối tác Toàn diện ASEAN - Nhật Bản được ký kết cách đây 1 năm. Ngoài ra, Việt Nam và Nhật cũng vừa phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện Việt Nam - Nhật Bản. Nếu Hiệp định này có hiệu lực trong năm nay thì xuất khẩu vào thị trường Nhật trong quý IV sẽ tăng trở lại và những mặt hàng được hưởng lợi nhiều nhất là dệt may, thủy sản, một số mặt hàng công nghiệp gia công như dây cáp, sản phẩm nhựa và thậm chí là hàng điện tử, vì mức thuế của Nhật giảm nhanh và mạnh hơn nhiều so với Việt Nam.


Bà Phạm Chi Lan
Trong khi đó, với góc nhìn dài hạn hơn, bà Phạm Chi Lan, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) cho rằng, vấn đề chính yếu đối với kinh tế Việt Nam sau khi ra khỏi khủng hoảng là cải thiện năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Theo bà, khi khủng hoảng xảy ra, chính khối doanh nghiệp tư nhân trong nước đã cứu nguy cho nền kinh tế, chứ không phải doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp quốc gia trong khi hai khối này được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Bà Lan chứng dẫn: “Hơn 90% việc làm là do khối doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa tạo ra. Nếu nhìn lại những thời kỳ khủng hoảng trước đây như vào cuối thập niên 1980, 1990 thì vai trò của khối tư nhân rất quan trọng”.

Dù nguồn vốn FDI được đánh giá là có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế, song theo ý kiến của một số chuyên gia, đừng quá kỳ vọng vào dòng vốn này. Bà Phạm Chi Lan cho biết, một khảo sát của Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM vào tháng 3.2009 cho thấy, trình độ công nghệ bình quân của các nhà đầu tư nước ngoài chỉ ở mức trung bình, thậm chí một số doanh nghiệp còn thấp hơn doanh nghiệp Việt Nam cùng ngành nghề. Trên thực tiễn, vài năm gần đây, có những hiện tượng không tốt ở một số doanh nghiệp FDI như thổi phồng số vốn đăng ký để được cấp đất nhiều hơn, lạm dụng tài nguyên, kết liên tạo vị thế chi phối thị trường, gây bất lợi cho Việt Nam, vi phạm pháp luật về cần lao, môi trường, không thực hiện các cam kết đầu tư, thiếu sáng tỏ trong kinh doanh… Bà cũng nêu ra con số được Chi Cục Thuế TP.HCM cung cấp: 6 tháng đầu năm 2009, 67% doanh nghiệp FDI trên địa bàn TP.HCM thưa lỗ, thậm chí có doanh nghiệp lỗ liên tiếp 10 năm. “Ở đây có nhẽ phải có một kỹ thuật chuyển lãi ra bên ngoài và để lỗ ở Việt Nam rất tốt, chứ một doanh nghiệp mà thực thụ lỗ liên tục 10 năm thì chỉ có nước… dẹp tiệm”, bà nhận định.

Bởi thế, bà cho rằng, sau giai đoạn tăng trưởng đẵn dựa vào FDI, xuất khẩu, vốn ODA, thoát ngưỡng nghèo (từ giữa năm 1990 đến nay) thì kể từ nay, Việt Nam trở nên nước thu nhập nhàng nhàng, bước vào thời kỳ phát triển mới, phải dựa cốt yếu vào nội lực, cụ thể là nội lực của khu vực tư nhân.

Trang 1 2 3 Trang kế tiếp


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét